Tính cộng đồng của người Việt - Cơ sở của tinh thần dân tộc quý báu, song hạn chế là gì?
Tinh thần cộng đồng, tâm lý cộng đồng là một đặc điểm trong tâm thức của người Việt Nam. Đặc điểm ấy thể hiện ở các tầng bậc từ vi mô đến vĩ mô, từ lịch đại đến đương đại.
“Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn.”, "Thương người như thể thương thân." hay "Nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một nước phải thương nhau cùng." Mỗi một người dân Việt Nam, bất kể giàu nghèo, xuất thân, địa lý,… đều lớn lên mà vô thức khắc cốt ghi tâm những câu ca dao, tục ngữ này. Hai tiếng “đồng bào” trong Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 của Chủ tịch Hồ Chí Minh có lẽ đã sớm tồn tại trong từng trang truyện cổ tích, thần thoại -“Con Rồng Cháu Tiên”.
Từ sớm, con người Việt Nam đã cùng chung sống; có văn hoá cộng tác, ăn chung, làm chung. Sự gắn kết con người cao dẫn đến sự hình thành đặc biệt của tính cộng đồng trong văn hoá sinh hoạt người Việt. Tinh thần cộng đồng, tâm lý cộng đồng là một đặc điểm trong tâm thức của người Việt Nam. Đặc điểm ấy thể hiện ở các tầng bậc từ vi mô đến vĩ mô, từ lịch đại đến đương đại. Tình cảm cộng đồng là một nhân tố tạo thành năng lực phối kết hợp - nền tảng của tinh thần dân tộc, tinh thần yêu nước. Dù không phủ nhận, tính cộng đồng là một giá trị nội lực, giá trị văn hoá quý báu, song nó cũng đem lại những hệ quả đáng nhìn nhận.
1. SỰ HÌNH THÀNH CỦA TÍNH CỘNG ĐỒNG
Từ thuở bình minh lịch sử, do bản năng sinh tồn (muốn được tập hợp sức mạnh chống thiên tai, địch họa, thú dữ và kích thích quá trình tiến hóa), con người đã có ý thức liên kết bầy đàn, sống quần tụ thành một cộng đồng, tập thể. Từ đó, xã hội loài người dần dần hình thành các mô hình xã hội từ dạng sơ khai cho đến phức tạp và phát triển cao như ngày nay.
A. Định nghĩa “Tính cộng đồng”
Theo nghĩa hẹp của bộ môn Nhân học văn hóa (Cultural anthropology), tính cộng đồng chỉ sự gắn bó với từng nhóm trong cộng đồng dân tộc lớn (in-group: Gia đình, thân tộc, tôn giáo...) gần như tính tập thể.
Theo nghĩa rộng, tính cộng đồng là ý thức và tình cảm gắn bó người tộc Việt với nhau (tức là tính cộng đồng dân tộc Việt). Tính cộng đồng đặc trưng cho tinh thần đoàn kết, tương trợ; tính tập thể hòa đồng; đó là sự gắn kết giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với cộng đồng tập thể.
Tính cộng đồng chú trọng nhấn mạnh vào sự đồng nhất: Cùng họ là đồng tộc, cùng tuổi là đồng niên, cùng nghề là đồng nghiệp, cùng làng là đồng hương...
B. Sự hình thành liên kết cộng đồng tại Việt Nam
Xuất phát từ nhu cầu lao động, sản xuất nông nghiệp
Truyền thống liên kết cộng đồng được hình thành trước hết từ nhu cầu trong lao động, sản xuất. Đặc điểm về địa hình, khí hậu, tài nguyên, sinh thái Việt Nam chứa đựng nhiều tiềm năng to lớn nhưng lại gây nhiều khó khăn, thách thức với con người. Việt Nam nằm trong khu vực có thời tiết 4 mùa, thổ nhưỡng đa dạng, nhiều sông ngòi, kênh rạch... rất phù hợp với nền sản xuất nông nghiệp trồng lúa nước. Tinh thần đoàn kết, gắn kết cộng đồng có nguồn gốc từ nền văn hóa lúa nước đó. Trong sản xuất nông nghiệp, các gia đình nông dân cùng canh tác trên một cánh đồng, môi trường canh tác gần gũi và mang tính tập thể đó khiến những người nông dân trong làng không thể sinh sống và làm việc đơn lẻ, mà liên kết với nhau trong mối liên hệ gần gũi, thân tình.
Bên cạnh đó, cuộc sống đầy nỗi bất trắc cũng đã tạo ra sự liên kết của cộng đồng, mối liên kết cá nhân phụ thuộc vào cộng đồng dần dần trở thành tập tục có cơ sở kinh tế - xã hội, bảo đảm tạo nên sợi dây tinh thần nối giữa các cá nhân trong cộng đồng: gia đình - làng - nước. Người Việt Nam quan tâm rất nhiều đến quan hệ cộng đồng vì mọi hành vi của mỗi cá nhân được đánh giá tốt hay xấu, có hợp đạo lý, lẽ phải hay không đều dựa vào các chuẩn mực quy tắc được xây dựng lên từ cộng đồng.
Xuất phát từ nhu cầu chống thiên tai, giặc ngoại xâm
Do địa lý, lịch sử, người Việt đã phải sớm tập hợp nhau chống thiên tai và ngoại xâm nên tính cộng đồng cao. Tính cộng đồng này, qua hàng nghìn năm, được nuôi dưỡng bởi nhiều giá trị văn hóa tạo ra những truyền thống gắn bó người dân, có những yếu tố văn hóa này, như một nhà nghiên cứu Nhật nhận định: “Giống như gió; chúng ta sống trong gió nhưng không nhìn thấy gió”.
Trong cuộc sinh tồn và phát triển, dân tộc Việt Nam luôn phải gồng mình lên để chiến đấu chống lại các thế lực ngoại bang hùng mạnh và thiện chiến, vận mệnh dân tộc không ít lần như “ngàn cân treo sợi tóc”. Trước nguy cơ nước mất nhà tan, sự sống còn của cá nhân gắn liền với sự tồn vong của cộng đồng nên tinh thần đoàn kết của dân tộc Việt Nam hình thành sớm. Điều này lý giải vì sao cộng đồng dân tộc Việt Nam cùng với Nhà nước trung ương tập quyền ra đời sớm, ngay vào lúc xây dựng nền móng cho chế độ quân chủ phong kiến dân tộc. Sự gắn kết cá nhân, gia đình, làng xã, Tổ quốc thành một khối thống nhất chính là bức thành đồng kiên cố giúp cộng đồng có thể vượt qua mọi dã tâm xâm lược, đưa đất nước đi lên cường thịnh và trường tồn.
2. BIỂU HIỆN CỦA TÍNH CỘNG ĐỒNG
Tính cộng đồng biểu hiện ở cách tổ chức đời sống cộng đồng, mà làng xã là một ví dụ tiêu biểu.
Theo Từ điển tiếng Việt (Trung tâm Từ điển học, 1995), “làng là khối dân cư ở nông thôn làm thành một đơn vị có đời sống riêng về nhiều mặt và là đơn vị hành chính thấp nhất thời phong kiến”.
Đặc điểm của làng xã cổ truyền là tính cộng đồng và tính tự trị, tự quản. Việc tổ chức nông thôn đồng thời theo nhiều nguyên tắc khác nhau tạo nên tính cộng đồng làng xã. Tính cộng đồng là sự liên kết các thành viên trong làng lại với nhau, mỗi người đều hướng tới những người khác. Tính cộng đồng nhấn mạnh vào sự đồng nhất (sự giống nhau). Do đồng nhất (cùng hội cùng thuyền, cùng cảnh ngộ) nên người Việt Nam luôn sẵn sàng đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau, coi mọi người trong cộng đồng như anh chị em trong nhà
Tiếng Việt mang hình bóng của tính cộng đồng người Việt rất đậm đặc
Đơn cử như trong tiếng Việt, không có đại từ ngôi thứ nhất và thứ hai chung cho mọi người mà phải thay bằng tiếng xưng hô trong thân tộc như: Ông, bà, bố, mẹ, anh, chị, em, con, cháu, cô, dì, chú, bác... Có lẽ đây cũng chính là một đặc thù của tiếng Việt so với ngôn ngữ khác trên thế giới.
Tính cộng đồng còn được thể hiện qua phong tục, tín ngưỡng, lễ hội của người Việt
Bản thân lễ hội chứa đựng trong đó các giá trị to lớn, hướng con người tới “cái thiêng”, có sức gắn kết cộng đồng, hấp dẫn, lôi cuốn các tầng lớp xã hội, trở thành một nhu cầu, một khát vọng của nhân dân trong nhiều thế kỷ.
Tính cộng đồng cũng được hình tượng hóa qua nhiều truyền thuyết, huyền thoại
Chúng được biểu hiện thành các yếu tố biểu tượng sinh động, đặc trưng như: “Con Rồng, cháu Tiên”, “Thánh Gióng”, “Sơn Tinh-Thủy Tinh”... Qua đó, ta thấy một dân tộc mà ngay từ thuở sơ khai đã gắn bó với nhau bằng nghĩa tình đồng bào ruột thịt, và lại kề vai sát cánh bên nhau bước vào cuộc trường chinh dựng nước và giữ nước, chung sức đồng lòng chiến đấu với bao thiên tai, địch họa để kiêu hãnh trường tồn.
3. TÁC ĐỘNG CỦA TÍNH CỘNG ĐỒNG: TÍCH CỰC & HẠN CHẾ
Mặt tích cực, tính cộng đồng là nền tảng của tinh thần dân tộc và lòng yêu nước quý báu
Tinh thần tập thể và ý thức trách nhiệm
Tính cộng đồng có những tác động tích cực đối với đời sống xã hội. Do có tính cộng đồng mà người Việt luôn có tinh thần tập thể, ý thức trách nhiệm. Trong mỗi hành vi ứng xử, trong lối sống và nếp nghĩ, con người luôn nghĩ đến cộng đồng, đến tập thể, luôn để ý đến các mối liên hệ xung quanh, tránh những việc làm phương hại đến tập thể. Vì tập thể, người ta sẵn sàng hy sinh lợi ích cá nhân. Cũng vì thế mà người phương Đông nói chung, người Việt nói riêng thường đề cao nghĩa vụ, trách nhiệm (khác với phương Tây thường coi trọng quyền lợi).
Giàu lòng nhân ái, đoàn kết, sẻ chia, bình đẳng
Vì có tinh thần tập thể nên người Việt giàu lòng nhân ái, đoàn kết, sẻ chia. Những người trong làng sống nương tựa vào nhau, vì nhau, cởi mở, hòa đồng, do đó, họ đối xử với nhau rất giàu tình nghĩa, coi trọng tình làng nghĩa xóm, “tương thân tương ái”, “thương người như thể thương thân”, “lá lành đùm lá rách” đầy nhân ái, sẻ chia. Cũng nhờ đó, người Việt đã hạn chế sự vô cảm, ích kỷ cá nhân. Bởi lẽ, con người gắn kết cộng đồng sẽ không chấp nhận lối sống hờ hững, vô trách nhiệm. Mọi vấn đề nảy sinh đều được giải quyết bằng tình nghĩa họ hàng, bà con, láng giềng một cách mềm dẻo, tạo nên nét văn hóa trọng tình. Do đề cao tính cộng đồng nên trong xã hội Việt Nam truyền thống, có một sự đồng nhất (giống nhau, bình đẳng với nhau) cũng chính là ngọn nguồn của nếp sống dân chủ-bình đẳng bộc lộ trong nguyên tắc tổ chức nông thôn theo địa bàn cư trú, theo nghề nghiệp, theo phe giáp...
Như vậy, có thể thấy, tính cộng đồng có mặt tích cực là tạo sự đồng thuận, thống nhất cao trong cộng đồng, giúp tập hợp, huy động được sức mạnh của số đông, tạo nên một tập thể đoàn kết, gắn bó để đạt được mục tiêu chung và cao nhất. Phát triển được tinh thần cộng đồng lành mạnh là cơ sở để nuôi dưỡng tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc.
Mặt hạn chế, tính cộng đồng mang theo cả tính ỷ lại, xu thế đám đông
Thói dựa dẫm, tâm lý xuề xoà
Sự đồng nhất (giống nhau) dẫn đến chỗ người Việt Nam hay có thói dựa dẫm, ỷ lại vào tập thể, tâm lý xuề xòa, đại khái, tâm lý đám đông: “Nước trôi thì bèo trôi”, “nước nổi thì thuyền nổi”. Tệ hại hơn nữa là tình trạng “Cha chung không ai khóc”, “Lắm sãi không ai đóng cửa chùa”... Dù khó khăn hoạn nạn, có người cũng hành xử theo tư duy “mặc kệ”: “Toét mắt là tại hướng đình/Cả làng toét mắt, riêng mình em đâu”. Hiện tượng “hôi của”, “đánh hội đồng”... xảy ra gần đây khiến cho không ít người khốn đốn là hiện tượng đáng buồn.
Tư tưởng an phận thủ thường, cả nể
Người Việt cũng có tư tưởng an phận thủ thường và cả nể, làm gì cũng sợ động chạm “rút dây động rừng” nên thường “dĩ hòa vi quý”, giải quyết vấn đề êm thấm theo kiểu “đóng cửa bảo nhau”, tránh “vạch áo cho người xem lưng”.
“Xấu đều hơn tốt lỏi”
Tính cộng đồng đề cao tập thể cũng dẫn đến tâm lý coi nhẹ cá nhân. Bị ràng buộc bởi quan hệ cộng đồng, trách nhiệm, con người lắm lúc quên đi nhu cầu, hạnh phúc cá nhân. Lại thêm tư tưởng bình quân, cào bằng, đồng nhất tập thể nên nảy sinh thói đố kỵ, không chấp nhận sự vượt trội của người khác. Họ thà “xấu đều hơn tốt lỏi”, “khôn độc không bằng ngốc đàn”... Điều này khiến cho người Việt không tạo ra được một sự hiệp thông thống nhất, khả năng làm việc nhóm không hiệu quả, dẫn đến việc “một người làm thì tốt, ba người làm thì tồi, bảy người làm thì hỏng”.
Một xã hội muốn phát triển thì cá nhân phải được tôn trọng, năng lực cá nhân phải được giải phóng. Một cộng đồng quá coi trọng tính tập thể thì yếu tố cá nhân bị lu mờ, vai trò và lợi ích của cá nhân bị gạt bỏ để phục vụ cộng đồng và tập thể.
Cũng như các giá trị khác trong bảng giá trị văn hóa dân tộc Việt Nam, tính cộng đồng là kết quả của nền văn minh lúa nước, của lịch sử chống thiên tai, địch họa bi thương nhưng cũng rất anh hùng của người Việt. Giá trị đó đã sinh thành, sống cùng dân tộc suốt hàng nghìn năm.
Nhưng tính cộng đồng của người Việt có tính tương đối và tính lịch sử cụ thể. Trong công cuộc đổi mới, chủ động hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay đang đặt giá trị văn hóa Việt Nam trước những yêu cầu, thử thách mới. Nhìn nhận lại giá trị cộng đồng truyền thống là một cách để “ôn cố nhi tri tân”. Nhận diện đúng đắn những giá trị và hạn chế của tính cộng đồng, từ đó có giải pháp kịp thời để “gạn đục khơi trong”, khắc phục những hạn chế, khiếm khuyết, làm tỏa sáng, lan tỏa những mặt tích cực, tốt đẹp đến cộng đồng hiện tại như một thứ sức mạnh mềm văn hóa cho phát triển bền vững đất nước là việc làm cấp thiết và ý nghĩa hiện nay.
_____________
Tham khảo:
Nguyễn Diệu Hương, “Tiếp cận tính cộng đồng: Những bàn luận
và nghiên cứu về tính cộng đồng ở Việt Nam,” Th“ng tin Khoa học xž hội, số 7.2016, https://vjol.info.vn/index.php/ssir/article/download/26168/22389/.
Nghiêm Thị Thu Nga, “Tính cộng đồng của người Việt,” Tạp chí Chính trị Quân đội Nhân dân, ngày 13 tháng 11 năm 2018, https://ct.qdnd.vn/van-hoa-xa-hoi/tinh-cong-dong-cua-nguoi-viet-526617.
Nguyễn Thị Thu Huyền, “Đôi nét về văn hóa làng xã và sự ảnh hưởng đến thực hiện dân chủ cơ sở,” Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2025, http://vanhoanghethuat.vn/doi-net-ve-van-hoa-lang-xa-va-su-anh-huong-den-thuc-hien-dan-chu-co-so.htm.